Là mẫu xe biểu tượng của ngành công nghiệp bốn bánh, McLaren F1 luôn nằm trong tầm ngắm của những nhà sưu tầm xe sừng sỏ trên thế giới. |
Trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến 1998, McLaren chỉ sản xuất đúng 106 chiếc F1, trong đó chỉ có 64 chiếc phiên bản thương mại được phép sử dụng trên đường phố. |
Đặc biệt, duy nhất chiếc McLaren F1 có số khung #029 được sản xuất với màu ngoại thất nâu Creighton Brown. |
Nội thất xe được thiết kế với 3 chỗ ngồi, bọc Alcantara và da cao cấp màu nâu Light Tan và Brazilian Brown. Khoang lái liền khối được làm từ sợi carbon. |
Đáng ngạc nhiên hơn khi odo của xe chỉ dừng ở con số 390 km kể từ năm 1995. Thậm chí xe vẫn còn mang bộ vỏ Goodyear Eagle F1 chính hãng từ nhà máy. |
Xe vẫn còn đầy đủ phụ kiện đi kèm như sổ tay bảo dưỡng, bộ dụng cụ bằng titanium, và đặc biệt là chiếc đồng hồ TAG Heuer 6000 Chronometer phiên bản McLaren F1. |
Chủ nhân đầu tiên của chiếc xe sống tại Nhật Bản. Vào năm 2013, chiếc xe được bán sang Mỹ và rất ít khi xuất hiện trên đường phố. |
Như những chiếc McLaren F1 khác, động cơ trên xe là phiên bản V12 hút khí tự nhiên do BMW chế tạo, dung tích 6.1L với công suất 627 mã lực. |
Sức mạnh động cơ được truyền đến cầu sau thông qua hộp số sàn 6 cấp. McLaren sử dụng công nghệ đĩa phanh thông gió của Brembo, và hệ thống treo tay đòn kép độc lập. |
Nhờ vào ứng dụng các vật liệu đắt tiền như sợi carbon, kevlar, titanium và thậm chí là vàng, McLaren F1 có khối lượng thấp đáng kể - 1.240 kg. |
Xe có khả năng tăng tốc từ 0 lên 100 km/h trong khoảng 3,7 giây, trước khi đạt vận tốc tối đa 386,4 km/h. Đây vẫn là một trong những mẫu xe sử dụng động cơ hút khí tự nhiên nhanh nhất thế giới tại thời điểm này. |
Tại buổi đấu giá của Gooding & Company, chủ nhân mới đã sở hữu chiếc xe với số tiền lên đến 20,5 triệu USD, vượt xa mức mong đợi 15 triệu USD của nhà đấu giá. Hiện đây cũng là chiếc McLaren F1 đắt nhất thế giới. |