Ngay sau khi công bố, bảng xếp hạng Viet Nam's University Rankings (VNUR) đã gây ra tranh cãi trong giới học thuật. Trong đó, nhiều người băn khoăn với thứ hạng của một số trường đại học.
Ngoài ra, một số người đặt ra câu hỏi về tính chính xác của nguồn dữ liệu đầu vào vì chỉ cần sai sót một số liệu cũng có thể dẫn tới thay đổi ở vị trí xếp hạng của các trường.
Không có bảng xếp hạng hoàn hảo
Trao đổi với Zing, TS Lê Văn Út, trưởng nhóm Nghiên cứu đo lường khoa học và Chính sách quản trị nghiên cứu, ĐH Văn Lang, nhận định 6 tiêu chuẩn VNUR sử dụng để xếp hạng phản ánh khá toàn diện chất lượng một trường đại học, phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
Tuy nhiên, một khi đã xếp hạng, bao giờ cũng có trường đại học này được xếp hạng cao hơn trường đại học kia và ngược lại (dù thống kê về mặt số liệu có thể cũng không lệch nhau nhiều). Vì vậy, có tranh cãi là điều tất yếu.
Tương tự, TS Phạm Hiệp, đồng trưởng nhóm Khoa học giáo dục và chính sách, Đại học Quốc gia Hà Nội, công nhận việc đưa ra một bảng xếp hạng mới là sự cố gắng của nhóm thực hiện và là khởi đầu tốt.
Tuy nhiên, không có bảng xếp hạng nào hoàn hảo, chắc chắn VNUR vẫn còn thiếu sót và các trường đại học trẻ xếp thứ hạng cao không phải là điều bất ngờ.
"Một số dữ liệu đánh giá còn thiếu sót. Ví dụ, nhóm thực hiện chỉ lấy dữ liệu từ ISI, nó chưa đầy đủ. Tôi nghĩ với số lượng 191 trường, nên lấy dữ liệu từ Scopus để bao trùm hơn", TS Hiệp nói.
Theo ông Hiệp, bảng xếp hạng VNUR không phân biệt các trường đào tạo đơn ngành hoặc đa ngành khi xếp hạng. Do vậy, những trường đơn ngành thường sẽ chịu thiệt thòi hơn. Nếu có thể, VNUR nên có bảng xếp hạng đặc thù như xếp hạng theo ngành.
Đồng quan điểm, TS Lê Đình Hiếu, ĐH Johns Hopkins, đánh giá cao phương pháp luận của bảng xếp hạng.
“Phương pháp luận được sử dụng trong bảng xếp hạng khá chuẩn khi họ có đầy đủ thang điểm mang tính đa chiều, khá toàn diện. Đó là điều đáng mừng”, ông Hiếu nói.
Tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá của bảng xếp hạng VNUR. |
Tuy nhiên, ông Hiếu cho rằng phương pháp luận chuẩn đặt ra yêu cầu dữ liệu đưa vào phải chuẩn để đưa ra một bảng xếp hạng đúng. Trong khi đó, việc lấy dữ liệu đầu vào ở Việt Nam khá khó.
Lý giải điều này, ông Hiếu cho biết hiện các bảng xếp hạng đại học có 2 phương thức để lấy dữ liệu. Thứ nhất, dữ liệu được cung cấp trực tiếp từ các trường đại học, sau đó được nhóm thực hiện hậu kiểm, đánh giá, xếp hạng. Thứ 2, nhóm đánh giá lấy dữ liệu độc lập, khách quan, không để các trường đại học tham gia vào.
Được biết, hiện VNUR sử dụng phương thức thứ 2, độc lập trong việc xây dựng dữ liệu và xếp hạng.
Ông Hiếu đánh giá việc lấy dữ liệu độc lập có thể khiến nhóm thực hiện không được cung cấp dữ liệu trực tiếp vào các trường, mà phải chấp nhận tin vào các dữ liệu sẵn có từ đề án tuyển sinh, báo cáo công khai của các trường, dữ liệu quản lý của các bộ chủ quản và WoS.
"Theo tôi, để bảng xếp hạng uy tín cần mất đến 4-5 năm để duy trì, khi đó, dữ liệu được lấy qua nhiều năm khác nhau mới dần đưa ra số liệu chuẩn", ông Hiếu nói.
Ngoài ra, theo ông Hiếu, các trường đại học được đánh giá trên nhiều tiêu chí mà người "ngoại đạo" không biết, việc tiêu chí này đạt điểm cao, tiêu chí khác đạt điểm thấp (yếu tố khách quan) và đưa ra tổng số điểm khiến nhiều người cho rằng thứ hạng đó không tương xứng.
Nên cởi mở với bảng xếp hạng đại học
Theo TS Lê Văn Út, bảng xếp hạng đóng vai trò quan trọng trong xu thế phát triển của các trường đại học hiện nay, đó là kênh thông tin khách quan, hữu ích để các đại học tham khảo và điều chỉnh trong quá trình hoạt động.
"Trên phạm vi quốc tế, xếp hạng đại học liên quan đến thương hiệu giáo dục quốc gia. Vì vậy, tôi nghĩ chúng ta không nên mất nhiều thời gian bàn luận có nên xếp hạng đại học hay vai trò của xếp hạng", TS Út nêu quan điểm.
Đồng quan điểm, TS Phạm Hiệp cũng cho rằng Việt Nam nên có bảng xếp hạng đại học từ lâu và duy trì nó nhiều năm.
"Tôi nghĩ cộng đồng nên cởi mở với bảng xếp hạng, đó chỉ là công cụ để bức tranh đại học Việt Nam đầy đủ hơn. Xu hướng xếp hạng đại học là điều tất yếu, sẽ có trường bất chấp, chạy theo xếp hạng như mục tiêu và dẫn đến lệch lạc, nhưng chúng ta phải sống chung với nó", ông Hiệp nói.
Chính vì vậy, TS Hiệp khuyến cáo chỉ nên dùng bảng xếp hạng như một công cụ tham khảo, một phép thử để đánh giá trường học. Ngoài bảng xếp hạng, người dùng phải tự đưa ra các tiêu chí khác để đo lường và quyết định.
Chia sẻ về quan điểm "Việc chạy đua bảng xếp hạng là biểu hiện căn bệnh thành tích", TS Út cho rằng mỗi cá nhân, đơn vị, tổ chức đều cần thành tích để tồn tại và phát triển, đại học cũng vậy. Tuy nhiên, việc xếp hạng đại học phải thực chất, tương đương với chất lượng thực sự của đại học.
"Khái niệm 'căn bệnh thành tích' về xếp hạng mà cộng đồng hay nêu là nhằm phê phán việc chạy theo xếp hạng mà không quan tâm để sự phát triển thực chất, phát triển chiều sâu của đại học", TS Út nói.
Tương tự, TS Hiếu cũng cho rằng "cuộc chơi" nào cũng có 2 mặt, bảng xếp hạng cũng vậy. Có những trường tìm lỗ hổng để rút ngắn khoảng cách, hoặc xuất hiện các vấn đề tiêu cực như bảng xếp hạng của US News, nhưng nhìn chung, việc xuất hiện bảng xếp hạng là tín hiệu tốt, thước đo để đại học Việt Nam phát triển hơn.
TS Phạm Hiệp khuyến cáo chỉ nên dùng bảng xếp hạng như một công cụ tham khảo để đánh giá trường học. Ảnh: Duy Hiệu. |
Duy trì bảng xếp hạng mới là điều khó
Theo TS Lê Văn Út, để bảng xếp hạng bền vững cần duy trì sự chấp nhận từ đa số cộng đồng đại học và cộng đồng học thuật, đồng thời bảng xếp hạng cần có kinh phí để tồn tại và duy trì. Để làm được điều đó, TS Út lưu ý một số điều sau:
Thứ nhất, phương pháp đánh giá phải khoa học và rõ ràng, trong đó, các tiêu chí đánh giá phải phản ánh đầy đủ đẳng cấp của một đại học từ nghiên cứu cho đến giáo dục.
Thứ 2, cách thức thực hiện phải khách quan, làm sao để cộng đồng có thể kiểm chứng được cách làm của tổ chức xếp hạng.
Thứ 3, tăng sự uy tín của tổ chức/nhóm xếp hạng. Sẽ không thể có kết quả xếp hạng tốt nếu tổ chức xếp hạng kém uy tín, không có những chuyên gia am hiểu về giáo dục đại học và phân tích dữ liệu.
Thứ 4, giải pháp tồn tại và độc lập của các bảng xếp hạng. Nếu mục tiêu của tổ chức xếp hạng là thương mại thì rất khó có bảng xếp hạng khách quan. Tuy nhiên, thực tế là một tổ chức xếp hạng cũng cần có nguồn lực để tồn tại.
Do đó, thay vì tổ chức xếp hạng tìm cách kinh doanh từ việc xếp hạng thì họ có thể làm các hoạt động tư vấn (tư vấn để các đại học phát triển và từ đó tăng hạng) hay kêu gọi tài trợ hoặc thực hiện các đề tài/dự án nghiên cứu về xếp hạng đại học để có kinh phí bảo đảm sự tồn tại của họ.
Đồng quan điểm, TS Phạm Hiệp cho rằng để duy trì, VNUR hay bất cứ bảng xếp hạng nào phải đảm bảo được tính độc lập, không bị thương mại hóa.
Ngoài ra, tổ chức thực hiện cũng cần có sự điều chỉnh, cải tiến kịp thời để bảng xếp hạng ngày càng phù hợp với cuộc sống, tăng độ uy tín.
Bên cạnh đó, xét về góc độ quản lý, ông Hiệp cho rằng Nhà nước cần tạo cơ chế quản lý các đơn vị xếp hạng đại học, bao gồm yêu cầu giải trình về phương pháp xếp hạng, quá trình lấy dữ liệu, công thức tính toán phải tường minh.
“Nhóm thực hiện không nhất thiết phải đưa các thông tin lên website bảng xếp hạng, tuy nhiên, cần có giải trình hợp lý với cơ quan quản lý, đặt ra trách nhiệm của nhà nước", TS Hiệp nói và cho rằng Nhà nước nên thực hiện bảng xếp hạng riêng, không nhất thiết xếp hạng theo thứ tự, mà có thể chấm theo số sao.
Vị tiến sĩ gợi ý VNUR có thể bổ sung thêm chỉ số đánh giá để tăng độ uy tín như lấy chỉ số từ Scopus (dữ liệu tóm tắt và trích dẫn các bài báo khoa học), đánh giá thêm năng lực số hóa và mức độ lan tỏa như Webometrics, đưa chỉ số nguồn tư liệu online và việc áp dụng phần mềm đạo văn trong liêm chính khoa học...
Bổ sung thêm, TS Lê Đình Hiếu cho rằng VNUR nên cho phép các trường có quyền phản biện, bổ sung dữ liệu sau khi bảng xếp hạng được công bố, tạo kênh tương tác 2 chiều.
Sách về nghề giáo
Mục Giáo dục giới thiệu một số lựa chọn liên quan đến nghề giáo - một nghề nghiệp đặc biệt và đang trải qua những biến động lớn:
Xin được nói thẳng (GS Hoàng Tụy) và Ước vọng cho học đường (GS Huỳnh Như Phương): Cuốn sách của hai nhà giáo tiên phong tại Việt Nam với nhiều suy nghĩ và những trăn trở của hai ông về tương lai nền giáo dục nước nhà.