|
Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm thanh niên đạt 9,03%, riêng khu vực thành thị là 12,42%. Ảnh minh họa: Phương Lâm. |
Theo báo cáo về tình hình lao động, việc làm quý III và 9 tháng năm 2025 của Cục Thống kê, thị trường lao động trong quý III và những tháng cuối năm 2025 trên thế giới tiếp tục chịu tác động tiêu cực bởi tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại cùng với áp lực từ bất ổn địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng và căng thẳng thương mại.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) dự báo số tăng trưởng việc làm toàn cầu trong năm nay giảm từ mức dự kiến 60 triệu xuống còn khoảng 53 triệu, tương ứng với tốc độ tăng trưởng việc làm giảm từ 1,7% xuống 1,5%, tương đương khoảng 7 triệu việc làm.
Trong nước, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, kích cầu tiêu dùng và đẩy mạnh đầu tư công tạo ra hiệu ứng tích cực cho thị trường lao động. Bức tranh thị trường lao động quý III/2025 ghi nhận nhiều khởi sắc, lực lượng lao động và số người có việc làm tăng mạnh; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm và lao động phi chính thức giảm; thu nhập của người lao động cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, số lượng 1,6 triệu thanh niên NEET (không học, không làm, không đào tạo) là dấu hiệu đáng lo ngại về nguy cơ lãng phí nguồn nhân lực trẻ và tiềm ẩn rủi ro thất nghiệp cơ cấu trong những năm tới.
Lực lượng lao động
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý III/2025 ước tính là 53,3 triệu người, tăng 254.500 người so với quý trước và tăng 583.600 người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý III/2025 là 68,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và không đổi so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm 2025, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,1 triệu người, tăng 556.300 người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,4%, giảm 0,2 điểm phần trăm.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý III/2025 là 29,5%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,0 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 29,1%, tăng 1,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước, điều này cho thấy chất lượng nguồn lao động đang dần được nâng cao.
Lao động có việc làm
Lao động có việc làm quý III/2025 là 52,3 triệu người, tăng 261.300 người so với quý trước và tăng 580.800 người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 21,1 triệu người, tăng 897.100 người so với quý trước và tăng 1.060.200 người so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực nông thôn là 31,2 triệu người, giảm 635.800 nghìn người và giảm 479.400 người.
Xét theo khu vực kinh tế lao động có việc làm quý III/2025 trong:
- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 13,4 triệu người, chiếm 25,6%;
- Khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,5 triệu người, chiếm 33,5%;
- Khu vực dịch vụ là 21,4 triệu người, chiếm 40,9%.
Số lượng lao động có việc làm theo quý (giai đoạn 2021-2025) | ||||||
Nhãn | Quý III năm 2021 | Quý III năm 2022 | Quý III năm 2023 | Quý III năm 2024 | Quý III năm 2025 | |
Lao động có việc làm | triệu người | 47.3 | 50.8 | 51.3 | 51.8 | 52.3 |
Tính chung 9 tháng năm 2025, lao động có việc làm là 52 triệu người, tăng 552.300 người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 20,4 triệu người, tăng 644.800 người so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực nông thôn là 31,6 triệu người, giảm 92.500 người.
Xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm 9 tháng năm 2025 trong:
- Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,4 triệu người, chiếm 25,8% và giảm 263.700 người so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,4 triệu người, chiếm 33,4% và tăng 318.100 người;
- Khu vực dịch vụ là 21,2 triệu người, chiếm 40,8% và tăng 497.900 người.
Nhìn chung, lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động có việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn.
Số lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) [1] quý III/2025 là 32,6 triệu người, chiếm 62,4% trong tổng số lao động có việc làm, giảm 1,1 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm 2025, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 63,4%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 47,6%, giảm 1,7 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 73,6%, giảm 0,6 điểm phần trăm;
- Nam là 66,7%, giảm 1,1 điểm phần trăm; nữ là 59,6%, giảm 1,5 điểm phần trăm.
Mặc dù tỷ lệ việc làm phi chính thức vẫn ở mức cao, nhưng xu hướng giảm cho thấy thị trường lao động đang dần mở rộng cơ hội việc làm theo hướng chính thức.
Thiếu việc làm trong độ tuổi lao động
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2025 [2] là 696.500 người, giảm 102.700 người so với quý trước và giảm 166.900 người so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2025 là 1,5%, giảm 0,23 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,37 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 1,26%;
- Khu vực nông thôn là 1,66%.
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động 9 tháng (giai đoạn 2019-2025) | ||||||||
Nhãn | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 | 2024 | 2025 | |
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động | người | 607700 | 1133300 | 1320500 | 1027500 | 922400 | 914800 | 764200 |
Tính chung 9 tháng năm 2025, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 764.200 người, giảm 150.600 người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65%, giảm 0,34 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Tỷ lệ thiếu việc làm tại khu vực thành thị là 1,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm;
- Tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,92%, giảm 0,54 điểm phần trăm.
Thu nhập bình quân của người lao động
Thu nhập bình quân của người lao động quý III/2025 là 8,4 triệu đồng/tháng, tăng 124.000 đồng so với quý II/2025 và tăng 748.000 đồng so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó:
- Thu nhập bình quân của lao động nam là 9,4 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 7,2 triệu đồng/tháng;
- Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 10,1 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 7,2 triệu đồng/tháng.
Tính chung chín tháng năm 2025, thu nhập bình quân của người lao động là 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 10,0%, tương ứng tăng 756.000 đồng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Thu nhập bình quân của lao động nam là 9,3 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 7,1 triệu đồng;
- Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 10,0 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 7,2 triệu đồng/tháng.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động [3] quý III/2025 là 2,22%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 2,73%;
- Khu vực nông thôn là 1,86%.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 9 tháng năm 2025 là 2,22%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 2,53%;
- Khu vực nông thôn là 2,00%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý III/2025 là 9,03%, tăng 0,84 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,30 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 12,42%;
- Khu vực nông thôn là 6,86%.
Trong quý III/2025, cả nước có khoảng 1,6 triệu thanh niên (từ 15-24 tuổi) không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo, chiếm 11,5%. Trong đó:
- Tỷ lệ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn là 13,0%, khu vực thành thị là 9,5%;
- Nữ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo là 13,3%; nam là 9,8%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) 9 tháng năm 2025 là 8,38%, tăng 0,47 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên:
- Khu vực thành thị là 11,24%, tăng 1,68 điểm phần trăm;
- Khu vực nông thôn là 6,75%, giảm 0,30 điểm phần trăm.
Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng
Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng [4] của Việt Nam thường dao động ở mức 4,0%. Tỷ lệ này tăng rất nhanh từ thời điểm quý I/2020 và đạt mức cao kỷ lục là 10,4% vào quý III/2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Quý III/2025, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 3,4% (tương ứng khoảng 1,83 triệu người). Trong đó:
- Khu vực thành thị là 3,5%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với quý trước;
- Khu vực nông thôn là 3,4%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với quý trước.
Tính chung 9 tháng năm 2025, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 3,7%, giảm 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Khu vực thành thị là 3,6% giảm 0,2 điểm phần trăm
- Khu vực nông thôn là 3,8%, giảm 0,8 điểm phần trăm.
Lao động làm công việc tự sản, tự tiêu
Lao động làm công việc tự sản tự tiêu quý III/2025 là 3,8 triệu người, giảm 72.500 người so với quý trước và giảm 76.600 người so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm 2025, lao động làm công việc tự sản tự tiêu là 3,8 triệu người, giảm 83.400 người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lao động nữ chiếm 62,7%; lao động ở khu vực nông thôn chiếm 87,0%.
[1] Lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong khu vực hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) là những người có việc làm và thuộc một trong các trường hợp sau:
(i) lao động gia đình không được hưởng lương, hưởng công;
(ii) người chủ của cơ sở, lao động tự làm trong khu vực phi chính thức;
(iii) người làm công hưởng lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc;
(iv) xã viên hợp tác xã không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc;
(iv) lao động trong khu vực hộ nông nghiệp.
[2] Người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gồm những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ; sẵn sàng làm thêm giờ; thực tế làm dưới 35 giờ/tuần.
[3] Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu có đầy đủ cả 03 yếu tố: hiện không làm việc, đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa số người thất nghiệp so với lực lượng lao động.
[4] Lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đủ công việc (hay còn gọi là lao động không sử dụng hết tiềm năng) bao gồm những người thất nghiệp, thiếu việc làm và một nhóm ngoài lực lượng lao động sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc hoặc có tìm việc nhưng chưa sẵn sàng làm việc ngay. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là tỷ số giữa lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đầy đủ công việc so với tổng số lao động có nhu cầu làm việc trong nền kinh tế.
AI thách thức Gen Z ở thị trường lao động
Theo chuyên gia kinh tế Trần Sĩ Chương, tác giả cuốn sách Trò chuyện cùng Gen Z, AI không chỉ thay đổi cách con người xử lý thông tin mà còn thách thức năng lực tư duy của chúng ta. Trong bối cảnh thị trường lao động biến đổi nhanh chóng, thế hệ trẻ cần rèn luyện khả năng đặt câu hỏi, tư duy phản biện và thích nghi với những thay đổi liên tục để đáp ứng yêu cầu của tương lai.